Việt Nam có bao nhiêu dân tộc? Danh sách các dân tộc Việt Nam

Việt Nam là một đất nước nhỏ thuộc Đông Nam Á. Đây cũng là một trong những quốc gia trên thế giới có nhiều dân tộc sinh sống. Vậy Việt Nam có bao nhiêu dân tộc? Qua bài viết này, VANHOADOISONG mong rằng bạn có thể hiểu thêm về các dân tộc ở Việt Nam.

Giới thiệu chung

Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em cùng nhau sinh sống. Trong đó, người Kinh chiếm tỉ lệ nhiều nhất với 84.5% dân số. Chiếm 14.6% dân số là các dân tộc thiểu số tương đương 53 dân tộc anh em.

Phần lớn dân tộc Kinh phân bố đông ở các vùng ven biển và đồng bằng, các dân tộc ít người thường phân bố ở các vùng núi hiểm trở. Tuy vậy, mỗi dân tộc lại có một đặc điểm riêng, tạo nên sự thống nhất và đa dạng trong văn hóa của người Việt.

Đại hội dân tộc lần thứ 2
Đại hội dân tộc lần thứ 2

Bản sắc văn hóa của các dân tộc thể hiện rõ qua các phương diện như kinh tế, phong tục tập quán, các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, lối sống,…

Một trong những nét chung tạo nên con người và văn hóa Việt Nam chính là lòng nồng nàn yêu nước, chịu thương chịu khó, aoàn kết, đồng lòng chống lại kẻ thù xâm lược bờ cõi từ thuở xa xưa.

Danh sách các dân tộc Việt Nam

Thứ tựDân tộcTên gọi khácLịch sử
1Ba NaJơ Lâng, Rơ Ngao, Tơ Lộ, Bơ Nâm, Krem, Roh, Con Kde,…Dân tộc Ba Na là một trong những cư dân sinh từ lâu đời ở Trường Sơn – Tây Nguyên đã kiến lập nên nền văn hóa độc đáo ở đây. Họ là tộc người có dân số đông nhất, chiếm vị trí rất quan trọng trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội ở các cao nguyên miền Trung nước ta.
2Chămngười Chàm, người Chiêm, người Chiêm Thành, người Hời,…Dân tộc Chăm vốn sinh tụ ở duyên hải miền Trung Việt Nam từ rất lâu đời, đã từng kiến tạo nên một nền văn hóa rực rỡ với ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa ấn Độ. Ngay từ những thế kỉ thứ XVII, người Chăm đã từng xây dựng nên vương quốc Chăm pa. Hiện tại cư dân gồm có hai bộ phận chính: Bộ phận cư trú ở Ninh Thuận và Bình Thuận chủ yếu theo đạo Bà la môn (một bộ phận nhỏ người Chăm ở đây theo đạo Islam truyền thống gọi là người Chăm Bà ni). Bộ phận cư trú ở một số địa phương thuộc các tỉnh Châu Đốc,Tây Ninh, An Giang, Đồng Nai và thành phố Hồ Chí Minh theo đạo Islam (Hồi giáo) mới.
3CoCor (Kor), ColTiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á), tương đối gần gũi các dân tộc khác trong vùng bắc Tây Nguyên và lân cận như: Hrê, Xơ Đăng, Ba Na… Chữ viết ra đời từ thời kỳ trước năm 1975 trên cơ sở dùng chữ cái La-tinh. Hiện nay chữ viết này không không phổ biến nữa.
4CốngXắm Khống, Mông Nhé, Xá XengNgười Cống có nguồn gốc di cư trực tiếp từ Lào sang.
5GiáyNhắng, Dẳng, Pâu Thìn, Pu Nà, Cùi Chu, Xạ,…Người Giáy từ Trung quốc di cư sang Việt Nam cách đây khoảng 200 năm.
6HrêChăm Rê, Chom Krẹ, Lùy,…Người Hrê thuộc số cư dân sinh tụ rất lâu đời ở vùng Trường Sơn – Tây Nguyên.
7La ChíCù Tê, La QuảNgười La Chí có lịch sử cư trú lâu đời ở Hà Giang, Lào Cai.
8Lô LôMùn Di, Màn Di, La La, Qua La, Ô Man, Lu Lộc Màn, người YiHọ là cư dân có mặt rất sớm ở vùng cực bắc của Hà Giang.
9MnôngBunongNgười Mnông là cư dân sinh tụ lâu đời ở miền trung Tây Nguyên nước ta.
10NùngTên tự gọi: NồngNgười Nùng phần lớn từ Quảng Tây (Trung Quốc) di cư sang cách đây khoảng 200-300 năm.
11Pu PéoKa Beo, Pen ti lô lô,…Họ đã từng sinh sống lâu đời ở miền cực bắc Việt Nam. Các dân tộc láng giềng đều thừa nhận người Pu Péo là một trong những cư dân khai khẩn ruộng nương đầu tiên ở vùng cực bắc.
12Sán DìuSan Déo Nhín, Sơn Dao NhânNgười Sán Dìu di cư đến Việt Nam khoảng 300 năm nay.
13TháiCôn Tay Tãy/ Tay/ Tày/ Thay tuỳ thuộc vào cách phát âm địa phươngNgười Thái có cội nguồn ở vùng Đông Nam Á lục địa, tổ tiên xa xưa của người Thái có mặt ở Việt Nam từ rất sớm.
14Xơ ĐăngSedang, Xơ Đeng, Ca Dong, Cà Dong, Tơ-dra, Hđang, Mơ-nâm, Hà Lăng, Ka Râng, Bri La Teng, Con LanNgười Xơ Đăng thuộc số cư dân sinh tụ lâu đời ở Trường Sơn – Tây Nguyên và vùng lân cận thuộc miền núi của Quảng Nam, Quảng Ngãi.
15Bố YChủng Chá, Trọng Gia, Tu Dí, Tu Dìn, Pu NàNgười Bố Y di cư từ Trung Quốc sang cách đây khoảng 150 năm.
16Chơ RoChrau Jro, người Đơ-Ro, Châu RoHọ là lớp cư dân cư trú từ xa xưa ở miền núi Nam Đông Dương.
17Cơ HoKaho, Kơ Ho, Koho, K’HoNgười Cơ Ho có lịch sử cư trú lâu đời ở Tây Nguyên.
18DaoDìu Miền, MiềnNgười Dao có nguồn gốc từ Trung Quốc, việc chuyển cư sang Việt Nam kéo dài suốt từ thế kỷ XII, XIII cho đến nửa đầu thế kỷ XX. Họ tự nhận mình là con cháu của Bản Hồ (Bàn vương), một nhân vật huyền thoại rất phổ biến và thiêng liêng ở người Dao.
19Gié-TriêngĐgiéh, Ta Reh, Giảng Rây, Pin, Triêng, Treng, Ta Liêng, Ve, La-Ve, Bnoong, Ca TangNgười Gié-Triêng là cư dân gắn bó rất lâu đời ở vùng quanh quần sơn Ngọc Linh.
20KhángXá Khao, Xá Xúa, Xá Đón, Xá Dâng, Xá Hộc, Xá Aỏi, Xá Bung, Quảng LâmNgười Kháng là một trong số các dân tộc cư trú lâu đời nhất ở miền Tây Bắc nước ta.
21La HaLa Ha, Klá, Phlạo, Xá Cha, Xá Bung, Xá Khao, Xá Táu Nhạ, Xá Poọng, Xá Uống, Bủ Hà, PụaNgười La Ha có mặt sớm ở miền Tây Bắc nước ta. Theo những tài liệu chữ Thái cổ thì vào thế kỷ XI, XII khi người Thái Đen thiên di tới vùng đất này, họ đã gặp tổ tiên của người La Ha hiện nay. Chính vì vậy, khi làm lễ cúng Mường, người Thái vẫn còn tục đặt cỗ “trâu trắng” để tế thần ¡m Poi – một thủ lĩnh nổi tiếng của người La Ha vào đầu thế kỷ XI.
22Lựngười Lữ, người Nhuồn, người Duồn, Thái LặcNgười Lự đã có mặt ở khu vực Xam Mứn (Điện Biên) ít nhất cũng trước thế kỷ XI – XII. Tại đây họ đã xây thành Xam Mứn (Tam Vạn) và khai khẩn nhiều ruộng đồng. Vào thế kỷ chiến tranh người Lự phải phân tán đi khắp nơi, một bộ phận nhỏ chạy lên sinh sống ở vùng núi Phong Thổ, Sìn Hồ.
23MôngTên tự gọi: Mông, Na Mỉeo.

Tên gọi khác: Mẹo, Mèo, Miếu Hạ, Mán Trắng.

Người Mông di cư về Việt Nam cách đây khoảng 300 – 500 năm. Nhóm địa phương: Mông Trắng, Mông Hoa, Mông Đỏ, Mông Đen, Mông Xanh, Na Mỉeo.
24Ơ ĐuTày HạtXưa kia người Ơ Đu cư trú suốt một vùng dọc theo hai con sông Nặm Mộ và Nặm Nơn. Nhưng tập trung nhất vẫn là dọc sông Nặm Nơn. Do nhiều biến cố trong lịch sử liên tiếp xảy ra ở vùng này buộc họ phải rời đi nơi khác hay sống hòa lẫn với các cư dân mới đến. Hiện người Ơ Đu ở hai bản đông nhất là Xốp Pột và Kim Hòa, xã Kim Đa huyện Tương Dương, Nghệ An. Ở Lào họ hợp với nhóm Tày Phoọng cư trú ở tỉnh Sầm Nưa.
25Ra GlaiRaglai, Ra Glây, Raglay, Rang Chơk, Rang ngokNgười Ra Glai đã sinh sống lâu đời ở vùng miền Nam Trung bộ.
26Si LaCú Dé Xử, Khà PéNgười Si La có nguồn gốc di cư từ Lào sang.
27ThổKẹo, Mọn, Cuối, Họ, Đan Lai, Ly Hà, Tày Pọng, Con Kha, Xá Lá VàngĐịa bàn cư trú hiện nay của người Thổ vốn là giao điểm của các luồng di cư xuôi ngược. Do những biến động lịch sử ở những thế kỷ trước, những nhóm người Mường từ miền Tây Thanh Hóa dịch chuyển vào phía Nam gặp gỡ người Việt từ các huyện ven biển Diễn Châu, Quỳnh Lưu, Thanh Chương ngược lên hòa nhập với cư dân địa phương có thể là gốc Việt cổ ở đây. Những người tha hương cùng chung cảnh ngộ ấy ngày một hòa nhập vào nhau thành một cộng đồng chung dân tộc Thổ.
28XTiêngngười S’tiêng, Giẻ XtiêngNgười Xtiêng sinh tụ lâu đời ở vùng Trường Sơn – Tây Nguyên và miền đông Nam bộ.
29Brâungười BrạoNgười Brâu chuyển cư vào Việt Nam cách đây khoảng 100 năm. Vùng Nam Lào và Đông Bắc Campuchia là nơi sinh tụ của người Brâu. Hiện nay, đại bộ phận cộng đồng này vẫn quần cư trên lưu vực các dòng sông Xê Xan (Xê Ca Máng) và Nậm Khoong (Mê Kông). Người Brâu có truyền thuyết Un cha đắc lếp(lửa bốc nước dâng) nói về nạn hồng thủy.
30Chu-RuChơ Ru, Kru, ThượngNgười Chu Ru thuộc nhóm chủng tộc Austronesia.
31Cờ LaoGelao, Ke LaoNgười Cờ Lao chuyển cư tới Việt Nam cách đây khoảng 150 – 200 năm.
32Ê-ĐêAnak Đê, Đê-GaNgười ê Đê là cư dân đã có mặt lâu đời ở miền trung Tây nguyên. Dấu vết về nguồn gốc hải đảo của dân tộc ê Đê đã phản ánh lên từ các sử thi và trong nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật tạo hình dân gian. Cho đến nay, cộng đồng ê Đê vẫn còn là một xã hội đang tồn tại những truyền thống đậm nét mẫu hệ ở nước ta.
33Hà NhìHa Ni, U Ní, Xá U NíCư dân Hà Nhì đã từng sinh sống lâu đời ở nam Trung Quốc và Việt Nam. Từ thế kỷ thứ 8, thư tịch cổ đã viết về sự có mặt của họ ở Tây bắc Việt Nam. Nhưng phần lớn tổ tiên người Hà Nhì hiện nay là lớp cư dân di cư đến Việt Nam khoảng 300 năm trở lại đây.
34KhmerKhmer Krom, Khmer hạ, Khmer dưới, Khmer ViệtTrước thế kỉ XII người Khmer và văn hóa của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.
35La HủXá Lá Vàng, Cò Xung, Khù Sung, Khả QuyNgười La Hủ chủ yếu làm nương du canh với nhịp độ luân chuyển cao. Gần đây họ chuyển dần sang trồng lúa trên ruộng bậc thang. Người La Hủ nổi tiếng về nghề đan lát (mâm cơm, ghế mây), rèn.
36MạMạ Xốp, Mạ Tô, Mạ Krung, Mạ NgắnNgười Mạ là cư dân sinh tụ lâu đời ở Tây Nguyên
37MườngMol, Moan, MualCùng nguồn gốc với người Việt cư trú lâu đời ở vùng Hòa Bình, Thanh Hóa, Phú Thọ…
38Pà ThẻnPá HưngTheo truyền thuyết, người Pà Thẻn ở vùng Than Lô (Trung Quốc) đến Việt Nam cách đây khoảng 200-300 năm với câu chuyện vượt biển cùng người Dao.
39Rơ MămNhững người già làng cho biết họ là cư dân đã sinh sống ở khu vực này từ xa xưa. Đầu thế kỷ XX dân số của tộc này còn khá đông, phân bố trong 12 làng, ở lẫn với người Gia Lai. Hiện họ chỉ sống tập trung trong một làng.
40Tà Ôikan tua, Pa Cô, Ba Hi hay Pa HiNgười Tà Ôi thuộc lớp dân cư tụ lâu đời ở Trường Sơn.
41ViệtKinhTổ tiên người Việt từ rất xa xưa đã định cư chắc chắn ở Bắc bộ và bắc Trung bộ. Trong suốt tiến trình phát triển của lịch sử Việt Nam, người Việt luôn là trung tâm thu hút và đoàn kết các dân tộc anh em xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
42Bru – Vân Kiềungười Bru, người Vân Kiều, người Ma Coong, người Trì, người KhùaHọ thuộc số dân cư được coi là có nguồn gốc lâu đời nhất ở vùng Trường Sơn.
43Chứtngười Rục, người Sách, người A rem, người Mày, người Mã liềng, Xá lá VàngQuê hương xưa của người Chứt thuộc địa bàn cư trú của người Việt ở hai huyện Bố Trạch và Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Vì nạn giặc giã, thuế khóa nặng nề nên họ phải chạy lên nương náu ở vùng núi, một số dần dần chuyển sâu vào vùng phía tây thuộc hai huyện Minh Hóa và Bố Trạch tỉnh Quảng Bình. Theo gia phả của một số dòng họ người Việt trong vùng thì các nhóm Rục, Sách cư trú tại vùng núi này ít nhất đã được trên 500 năm nay.
44Cơ Tungười Ca Tu, Gao, Hạ, Phương, Ca-tangNgười Cơ Tu cư trú lâu đời ở miền núi tây bắc tỉnh Quảng Nam, tây nam tỉnh Thừa Thiên Huế, liền khoảnh với địa bàn phân bố tộc Cơ Tu bên Lào. Họ thuộc số cư dân cư trú lâu đời ở vùng Trường Sơn – Tây Nguyên.
45Gia RaiNgười Jrai, Gia Rai hay JaraiDân tộc Gia Rai là một trong những cư dân sớm sinh tụ ở vùng núi Tây Nguyên, lan sang một phần đất Campuchia. Trong xã hội Gia Rai xưa đã có Pơ tao ia (vua nước) và Pơ tao pui (vua lửa) chuyên cúng trời, đất, cầu mưa thuận gió hòa… Trước thế kỷ XI người Ê Đê, Gia Rai được gọi chung một tên là Rang Đêy. Vào thế kỷ XV-XVI sử sách phong kiến Việt Nam ghi nhận danh hiệu Thủy Xá (vua nước), Hỏa Xá (vua lửa). Chỉ có người đàn ông họ Siu mới được làm vua lửa, vua nước và con gái họ Rơ chom mới được quyền làm vợ hai vua. Có lẽ chữ Pơ tao đồng nghĩa với Mtao của người Chăm, Tạo của người Thái và Thao của Lào, đều chỉ người thủ lĩnh.
46HoaKhách, Hán, TàuNgười Hoa di cư đến Việt Nam vào những thời điểm khác nhau từ thế kỷ XVI, và sau này vào cuối thời Minh, đầu thời Thanh, kéo dài cho đến nửa đầu thế kỷ XX.
47Khơ MúXá Cẩu, Mứn Xen, Pu Thênh, Tềnh, Tày HạyKhơ Mú là một trong những cư dân đã cư trú lâu đời nhất ở miền Tây Bắc Việt Nam. Bộ phận Khơ Mú cư trú tại miền núi các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An do chuyển cư từ Lào sang.
48LàoThay, Thay Duồn, Thay NhuồnNgười Lào có nguồn gốc di cư từ Lào sang
49MảngMảng Ư, Xá Mảng, Niểng O, Xá Bá OXưa nay vùng Nặm Ban (Dum Bai) thuộc xã Nặm Ban, huyện Sìn Hồ tỉnh Lai Châu vẫn được gọi là “quê hương” của người Mảng. Nhiều truyền thuyết, truyện kể còn lưu truyền cho đến ngày nay giúp chúng ta có thể nhận ra người Mảng là một trong những dân cư bản địa ở vùng Tây Bắc.
50NgáiTên tự gọi: Sán Ngải.

Tên gọi khác: Ngái Hắc Cá, Ngái Lầu Mần, Hẹ, Sín, Đản, Lê, Xuyến.

Người Ngái có nhiều gốc khác nhau và thiên di tới Việt Nam làm nhiều đợt. Quá trình này diễn ra suốt thời kỳ Trung và Cận đại.
51Phù LáTên tự gọi: Lao Va Xơ, Bồ Khô Pạ, Phù Lá.

Tên gọi khác: Xá Phó, Cần Thin.

Nhóm Phù Lá Lão – Bồ Khô Pạ là cư dân có mặt tương đối sớm ở Tây Bắc nước ta.

Các nhóm khác đến muộn hơn, khoảng 200-300 năm trở lại, quá trình hội nhập của nhóm Phù Lá Hán còn tiếp diễn cho tới những năm 40 của thế kỷ XX.

52Sán ChayHờn Bán, Chùng, Trại…Người Sán Chay từ Trung Quốc di cư sang cách đây khoảng 400 năm.
53TàyThổNgười Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, có thể từ nửa cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên.
54Xinh MunPuộc, Xá, PnạNgười Xinh Mun đã từng sinh sống lâu đời ở miền Tây Bắc Việt Nam.

Các nhóm ngôn ngữ chính

Việt Nam là mảnh đất màu mỡ giao thoa giữa nhiều nền văn hóa trong khu vực. Việt Nam có đầy đủ 3 hệ ngôn ngữ lớn trong khu vực Đông Nam Á,ngữ hệ Nam đảo, vàhệ ngữ Hán – Tạng.

Dân tộc Việt thuộc 8 nhóm ngôn ngữ khác nhau:

– Nhóm Việt – Mường có 4 dân tộc là: Chứt,Kinh,Mường,Thổ.

– Nhóm Tày – Thái có 8 dân tộc là: Bố Y,Giáy,Lào,Lự,Nùng,SánChay,Tày,Thái.

Dân tộc Thái
Dân tộc Thái

– Nhóm Môn – Khmer có 21 dân tộc là: Ba na,Brâu,Bru-Vân kiều,Chơ-ro,Co,Cơ-ho,Cơ-tu,Gié-triêng,Hrê,Kháng,Khmer,Khơ mú,Mạ,Mảng,M’Nông,Ơ-đu,Rơ-măm,Tà-ôi,Xinh-mun,Xơ-đăng,Xtiêng.

– Nhóm Mông – Dao có 3 dân tộc là: Dao,Mông,Pà thẻn.

– Nhóm Kađai có 4 dân tộc là: Cờ lao,La Chí,La ha,Pu péo.

Dân tộc Dao Lô Gang
Dân tộc Dao Lô Gang

– Nhóm Nam đảo có 5 dân tộc là: Chăm,Chu-ru,Ê đê,Gia-rai,Ra-glai

– Nhóm Hán có 3 dân tộc là: Hoa,Ngái,Sán dìu

– Nhóm Tạng có 6 dân tộc là: Cống,Hà nhì,La hủ,Lô lô,Phù lá,Si la

Dân tộc Ê-đê
Dân tộc Ê-đê

Xem thêm:

Với bài viết trên, mình hy vọng những kiến thức trên có thể giúp bạn giải đáp câu hỏi Việt Nam có bao nhiêu dân tộc. Chúc bạn luôn may mắn và thuận lợi!

0/5(0 Reviews)

Bài viết liên quan

Bình luận

Để lại bình luân

Nhập bình luận tại đây
Để lại tên bạn ở đây

Bài viết xem nhiều