Giải trí

TVXQ/DBSK profile: Tiểu sử 5 thành viên của TVXQ/DBSK

Nếu bạn là một fan Kpop chính hiệu thì chắc chắn không thể không biết đến tường thành Kpop – nhóm nhạc TVXQ. Cùng xem ngay bài viết dưới đây để tìm hiểu về các thành viên của TVXQ cũng như chặng đường âm nhạc vô cùng rực rỡ của họ nhé!

Khái quát nhóm nhạc TVXQ

Giới thiệu

TVXQ là nhóm nhạc Gen2 nổi tiếng hàng đầu Kpop trực thuộc công ty giải trí hàng đầu xứ sở Kim chi là SM Entertainment. TVXQ là viết tắt của Tong Vfang Xien Qi, dịch ra tiếng Việt nghĩa là “Những vị thần đến từ phương Đông”.

Tại Hàn Quốc, TVXQ được biết với tên gọi là DBSK (Dong Bang Shin Ki), được ghép từ các chữ cái đầu trong tên tiếng Hàn của nhóm.

Các trang mạng xã hội chính thức của ca sĩ TVXQ:

TVXQ là nhóm nhạc Gen2 nổi tiếng hàng đầu Kpop trực thuộc SM Entertainment

Tên fandom chính thức

Tên fandom chính thức của TVXQ là Cassiopeia, đây là tên một chòm sao có 5 ngôi sao ứng với 5 thành viên của nhóm.

Tên fandom chính thức của TVXQ là Cassiopeia

Lightstick của TVXQ/DBSK

Lightstick chính thức của TVXQ có màu đỏ và hình ngôi sao năm cánh được SM công bố vào năm 2018, sau 14 năm debut của nhóm. Hình ảnh ngôi sao năm cánh khiến các fan không khỏi xúc động khi liên tưởng đến biểu tượng tượng trưng cho cả 5 chàng trai.

Dù 3 thành viên là Jaejoong, Jun-suYoochun đã rời nhóm và chỉ còn 2 thành viên là Chang-minYun-ho nhưng trong lòng người hâm mộ, TVXQ mãi là 5 ngôi sao lớn, vẫn luôn là “Những vị thần phương Đông” và mãi gắn kết.

Lightstick chính thức của TVXQ có màu đỏ và hình ngôi sao năm cánh

Màu sắc chính thức

Màu sắc chính thức của TVXQ chính là màu đỏ ngọc. Đến hiện tại, dù chỉ còn 2/5 thành viên là Changmin và Yunho nhưng fan hâm mộ vẫn thể hiện tình yêu với 5 mảnh ghép hoàn hảo TVXQ với màu đỏ ngọc này.

Màu sắc chính thức của TVXQ chính là màu đỏ ngọc

Tiểu sử nhóm nhạc TVXQ/DBSK

Năm 2003 – 2005: Ra mắt và phát triển

Trước khi quyết định lựa chọn tên nhóm là Dong Bang Shin Ki nghĩa là Đông Phương Thần Khởi thì TVXQ đã trải qua nhiều lần lựa chọn những cái tên nhóm khác nhau. Ngày 26/12/2003, TVXQ chính thức ra mắt khán giả Hàn Quốc trong buổi biểu diễn với sự có mặt của hai ca sĩ BoaBritney Spears.

Tháng 01/2004, đĩa đơn đầu tiên của TVXQ “Hug” được phát hành và nhanh chóng đứng thứ 4 bảng xếp hạng hàng tháng và đứng thứ 14 trong bảng xếp hạng đĩa bán chạy nhất năm 2004. Vào tháng 7 cùng năm, đĩa đơn thứ 2 mang tên “The Way u Are” phát hành và đạt thứ 2 trong BXH và đứng thứ 9 trong những đĩa đơn bán chạy nhất năm.

Năm 2003 – 2005: TVXQ Ra mắt và phát triển sự nghiệp

Thừa thắng xông lên, TVXQ tiếp tục cho ra mắt album đầu tên “Tri-Angle” vào tháng 10/2004. Album lập tức chiếm vị trí thứ nhất trong BXH và đứng thứ 8 trong top những đĩa nhạc bán chạy nhất năm 2004.

Ngày 27/04/2005, dưới sự quản lý của công ty Rhythm Zone (công ty con của Avex), TVXQ chính thức ra mắt khán giả Nhật Bản với đĩa đơn “Stay With Me Tonight”. Sau đó, nhóm nhạc nam lại tiếp tục cho ra ca khúc tiếng Nhật thứ hai là “Somebody To Love”. Kế đó, album tiếng Hàn thứ hai “Rising Sun” được trình làng tại quê nhà và nhanh chóng chiếm giữ vị trí số 1 trên BXH và đứng thứ 4 trong BXH cuối năm.

Năm 2003 – 2005: TVXQ Ra mắt và phát triển sự nghiệp

Cuối năm 2005, TVXQ cho ra mắt đĩa đơn thứ ba là “My Destiny” tại Nhật và “Show Me Your Love” kết hợp cùng Super Junior tại Hàn Quốc đã tiêu thụ được 49.945 bản, đứng thứ 35 trong những đĩa đơn bán chạy nhất năm 2005.

TVXQ khép lại 2005 của nhóm với giải thưởng “Video âm nhạc hay nhất” cho album Rising Sun và giải “Khán giả bình chọn” vào năm 2005 Mnet KM Music Video.

Năm 2003 – 2005: TVXQ Ra mắt và phát triển sự nghiệp

Năm 2006 – 2007: Tấn công thị trường châu Á

TVXQ khởi động chuyến lưu diễn quốc tế đầu tiên trên toàn châu Á mang tên 1st Asia Tour – Rising Sun vào năm 2006. Bên cạnh quê nhà, nhóm còn biểu diễn tại Thái Lan, Trung Quốc và trở thành nghệ sĩ Hàn Quốc đầu tiên tổ chức biểu diễn hòa nhạc tại Malaysia.

Tháng 03/2006, TVXQ phát hành đĩa đơn tiếng Nhật thứ 4 tên “Asu Wa Kuru Kara” và album tiếng Nhật đầu tiên “Heart, Mind and Soul”. Album nhanh chóng giữ vị trí thứ 25 trên BXH tuần Oricon. Một tháng sau đó, đĩa đơn tiếng Nhật thứ 5 “Rising Sun/Heart, Mind and Soul” cũng được phát hành và và chiếm vị trí 22 trên Oricon Albums Chart.

Năm 2006 – 2007: TVXQ tấn công thị trường châu Á

Sau đó là buổi lưu diễn đầu tiên tại Nhật, 1st Live Tour 2006: Heart, Mind and Soul từ tháng 5 đến tháng 6 để quảng bá cho album. TVXQ phát hành thêm 2 đĩa đơn tiếng Nhật là “Begin” và “Sky” lại tiếp tục đứng ở vị trí thứ 6 và là đĩa đơn đầu tiên của nhóm lọt Top 10 BXH Oricon. Mùa hè 2006, TVXQ biểu diễn tại concert thường niên của Avex, A-Nation.

Tháng 09/2006, TVXQ trở lại Hàn Quốc với album thứ 3 “O”- Jung.Ban.Hap. Lần trở lại này của nhóm vẫn tiếp tục nồng nhiệt với vị trí thứ 1 tại BXH và trở thành đĩa nhạc bán chạy nhất trong năm.

Năm 2006 – 2007: TVXQ tấn công thị trường châu Á

Và đĩa đơn thứ 8 “Miss you/”O” -Sei-Han-Go-” được phát hành 2 tháng sau đó cũng chiếm lĩnh vị trí thứ 3 trên BXH ngày của Oricon. Đây cũng chính là đĩa đơn đầu tiên của nhóm lọt vào Top 5 vào năm 2006 Mnet KM Music Festival. Tại Liên hoan, TVXQ ẵm trọn 4 giải thưởng lần lượt là “Nghệ sĩ xuất sắc nhất của năm”, “Nhóm nhạc xuất sắc nhất”, “Mnet. com” và “Giải thưởng Mnet Plus Mobile do khán giả bình chọn”.

TVXQ tiếp tục nhận được 3 giải thưởng, trong đó có giải “Daesang” tại Giải thưởng âm nhạc Seoul thứ 16. Tại giải Đĩa vàng 2006, nhóm cũng đạt được giải “Daesang” và giải “Bonsang”. Đồng thời, cũng tại lễ trao giải SBS Gayo Daejeon 2006, TVXQ lại đoạt thêm giải “Daesang” và “Bonsang”.

Năm 2006 – 2007: TVXQ tấn công thị trường châu Á

Ngay sau sau chuyến lưu diễn toàn châu Á thứ hai 2nd Asia Tour “O”, TVXQ đã cho ra mắt đĩa đơn tiếng Nhật “Step By Step” đầu năm 2007. Tháng 03/2007, nhóm phát hành thêm đĩa đơn tiếng Nhật thứ 10 “Choosey Lover” và album tiếng Nhật thứ 2 “Five in the Black”. Tháng 05/2007, nhóm đã đoạt giải “Best Buzz Asia in Korea” cho album “O”-Jung.Ban. Hap tại giải thưởng âm nhạc MTV Video Music Awards Nhật Bản.

Tháng 06 – 12/2007, TVXQ phát hành chuỗi 5 đĩa đơn “Lovin’ You”, “Summer: Summer Dream/Song for You/Love in the Ice”, “Shine/Ride On”, “Forever Love” và “Together”, “Summer: Summer Dream/Song for You/Love in the Ice”. Với chuỗi đĩa đơn này, TVXQ đã thành công chiếm lĩnh ngôi vị thứ 2 trên Oricon và đạt thành tích cao nhất của nhóm nhạc nước ngoài tại thời điểm đó.

Cùng năm, nhóm có sự kết hợp với ca sĩ người Nhật Bản Koda Kumi cho đĩa đơn thứ 38 của cô, “Last Angel” và được sử dụng làm nhạc nền cho bộ phim hành động Resident Evil: Extinction.

Năm 2006 – 2007: TVXQ tấn công thị trường châu Á

Năm 2008 – 2009: Thành công về thương mại

Ngày 16/01/2008, TVXQ trở thành nhóm nhạc nước ngoài đầu tiên xếp vị trí thứ nhất trên BXH tuần Oricon với đĩa đơn tiếng Nhật 16 “Purple Line”. Sau đó, album tiếng Nhật thứ 3 “T”. “T” cũng nhanh chóng chiếm vị trí thứ 4 trên BXH này. Tiếp theo, nhóm công bố dự án “Trick” với 5 đĩa đơn sẽ được ra mắt trong 6 tuần, từ tháng 2 đến tháng 3 sẽ phát hành các đĩa đơn cho từng thành viên.

Đĩa đơn thứ 23 “Beautiful You/Sennen Koi Uta” cũng được phát hành trong tháng 4 và mang về cho nhóm danh hiệu nghệ sĩ nước ngoài đầu tiên có 2 đĩa đơn No.1 trên Oricon tuần sau 24 năm. Tháng 06/2008, TVXQ trở lại Hàn Quốc để tham gia Dream Concert 2008 tại Sân vận động Olympic.

Năm 2008 – 2009: TVXQ thành công về thương mại

Chuyến lưu diễn châu Á lần thứ hai – 2nd Asia tour concert “O” và buổi biểu diễn tại Bắc Kinh cũng được khép lại vào ngày 12/06/2008. Sau đó, nhóm quay lại Nhật Bản và phát hành đĩa đơn 24 “Doushite Kimi wo Suki ni Natte Shimattan Darou?”. Với đĩa đơn lần này, lại một lần nữa TVXQ trở thành nghệ sĩ nước ngoài duy nhất có 3 đĩa đơn N0.1 trên BXH Oricon tuần. Nhóm tiếp tục có buổi biểu diễn tại lễ kỷ niệm 20 năm của Avex và A-Nation 2008.

Tháng 08/2008, TVXQ trở lại quê nhà và tham gia SM Town Live 08 cùng các nghệ sĩ trực thuộc công ty SM Entertainment như: BoA, Zhang Liyin, Girls’ Generation, The Grace, SHINee và Super Junior. Dù phát hành muộn hơn so với dự tính nhưng album “Mirotic” của TVXQ tại Hàn Quốc được phát hành vào 24/09/2008, đã nhanh chóng đứng vị trí thứ 1 trên BXH và trở thành album bán chạy nhất năm 2008 chỉ sau 3 ngày ra mắt.

Năm 2008 – 2009: TVXQ thành công về thương mại

Tháng 01/2009 tổng số album “Mirotic” đã được tiêu thụ là 502.837 bản và trở thành album đầu tiên tại Hàn Quốc vượt ngưỡng 500.000 bản trong 6 năm qua.

Tháng 10/2008, một phiên bản của “Mirotic” được phát hành tại Nhật là “Jumon ~Mirotic~” và không ngoài dự đoán, đĩa đơn lại tiếp tục đứng vị trí cao nhất trên BXH tuần Oricon. Cũng trong năm 2008, TVXQ trở thành nhóm nhạc Hàn Quốc đầu tiên tham dự sự kiện âm nhạc có tỉ lệ người xem cao kỷ lục tại Nhật Bản – Liên hoan âm nhạc Kouhaku Uta Gassen được tổ chức thường niên vào dịp cuối năm.

Năm 2008 – 2009: TVXQ thành công về thương mại

TVXQ mở màn tháng 01/2009 với đĩa đơn tiếng Nhật thứ 25 “Bolero/Kiss The Baby Sky/Wasurenaide” và chiếm giữ vị trí số 1 tại BXH tuần Oricon. Lại một lần nữa, đĩa đơn giúp TVXQ trở thành nghệ sĩ nước ngoài đầu tiên và duy nhất có 5 ca khúc N0.1 trên Oricon.

Tháng 03/2009, đĩa đơn thứ 26 “Survivor” và album tiếng Nhật thứ 4 “The Secret Code” lần lượt chiếm vị trí thứ 2 và thứ 3 trên Oricon và cũng kết thúc chuỗi đĩa đơn No.1 liên tiếp của nhóm.

Năm 2008 – 2009: TVXQ thành công về thương mại

Ngày 22/04/2009, nhóm phát hành đĩa đơn thứ 27 “Share the World / We Are!” và nhanh chóng đứng thứ 1 tại Oricon tuần. Đồng thời, “We are” trở thành ca khúc chính thức mở đầu cho Anime One Piece của Nhật Bản. Ngày 01/07/2009, đĩa đơn thứ 28 “Stand By U” xếp vị trí thứ 2 trên BXH.

Ngày 20/02/2009, TVXQ tiếp tục chuyến lưu diễn châu Á lần thứ 3 mang tên The 3rd Asia tour concert Mirotic phục vụ hơn 390.000 lượt fan. Sau đó, tháng 04/2009, nhóm quay lại Nhật để bắt đầu buổi diễn vòng quanh nước Nhật.

Tháng 07/2009, TVXQ trở thành nhóm nhạc đầu tiên của Hàn Quốc tổ chức liveshow tại Tokyo Dome của Nhật Bản, phục vụ hơn 500.000 lượt fan. Ngày 22/08/2009, TVXQ đã giành được giải thưởng “Nhóm nhạc nổi tiếng nhất châu Á” tại Channel V Music Video Awards 2009 của Thái Lan. Danh hiệu tiếp theo mà nhóm nhận được là hai đĩa vàng cho chuyến lưu diễn “T” và “Heart, Mind and Soul” và một đĩa bạch kim cho album “The Secret Code”.

Năm 2008 – 2009: TVXQ thành công về thương mại

Ngày 30/09/2009, hai thành viên Micky Yoochun và Hero Jaejoong phát hành đĩa đơn thứ 29 “COLORS – Melody and Harmony/Shelter” và tiêu thụ hơn 149.000 bản và giành được vị trí No.1 bảng xếp hạng Oricon tuần.

Ngày 08/10/2009, TVXQ trở thành nghệ sĩ nước ngoài đầu tiên trong hơn 20 năm chiếm vị trí cao nhất tại BXH Oricon tuần dành cho DVD, 4th The Secret Code tour – Final in Tokyo Dome với hơn 171.000 bản được tiêu thụ.

TVXQ được xem là nhóm nhạc nam có số lượng fan đông nhất thế giới. Năm 2009, là một năm thành công lớn của nhóm về doanh thu, chỉ riêng tại Nhật nhóm đã thu về 76 triệu USD và đứng thứ 3 chỉ sau hai ban nhạc hàng đầu Nhật Bản là ArashiExile. Hơn thế nữa, nhóm mang về cho SM gần 110 triệu USD và là nghệ sĩ Hàn Quốc có doanh thu cao nhất năm 1009 chỉ tính riêng thị trường châu Á.

Năm 2008 – 2009: TVXQ thành công về thương mại

Năm 2009 – 2010: Vụ kiện với SM và tạm dừng hoạt động

Thành công tại Nhật

Đĩa đơn thứ 30 “BREAK OUT!” của TVXQ chiếm ngôi vị quán quân trên Oricon ngày tuần đầu tiên và lập kỷ lục nghệ sĩ nước ngoài có lượng đĩa bán được tuần đầu tiên cao nhất tại Nhật. Tháng 02/2010, TVXQ thể hiện ca khúc nhạc phim “With All My Heart” được ra mắt vào tháng 09/2010.

Ngày 17/02/2010, nhóm phát hành album tiếng Nhật “”Best Selection 2010” và giành lấy vị trí quán quân album tuần Oricon. Đây cũng chính là thành công khẳng định mức độ nổi tiếng của TVXQ tại thị trường âm nhạc lớn thứ 2 thế giới sau Mỹ.

Ngày 24/03/2010, TVXQ chính thức phát hành đĩa đơn tiếng Nhật thứ 30 mang tên “Toki Wo Tomete” và chỉ trong ngày đầu tiên đã tiêu thụ gần 125.000 bản và giành vị trí No.1 trên bảng xếp hạng Oricon ngày. Cùng lúc đó là album “TVXQ NonStop-MIX vol.2” cũng đứng vị trí thứ 2 trên BXH Oricon tháng 3.

Năm 2009 – 2010: Vụ kiện với SM và tạm dừng hoạt động

Sau khi dừng hoạt động

Ngày 03/04/2010, Avex tuyên bố tạm ngừng hoạt động của nhóm tại Nhật Bản dưới tên Tohoshinki và sẽ tiếp tục giúp đỡ các thành viên theo con đường solo. Năm 2010, chỉ 3 tháng đầu tiên, TVXQ đã lập kỷ lục mới với khi tổng lượng đĩa bán ra đã xấp xỉ 1.300.000 bản cho 2 đĩa đơn và album Best Selection 2010, album “TVXQ NonStop-MIX vol.2”.

Cũng trong tháng 3, Hiệp hội ghi âm Nhật Bản đã chính thức trao tặng cho TVXQ đĩa Bạch kim cho hai đĩa đơn “BREAK OUT!” và “Toki Wo Tomete”. Đồng thời album Best Selection 2010 đã được chứng nhận Đĩa đôi bạch kim và đoạt No.1 Bảng xếp hạng toàn cầu.

Cuối tháng 05/2010, 3 thành viên Jaejoong, Yoochun và Junsu tổ chức concert “Thanksgiving Live in Dome” tại Nhật Bản, bằng danh nghĩa một nhóm mới tên JYJ dưới sự quản lý của Rhythm Zone Japan và được Avex thông báo chính thức. DVD live đầu tiên của JYJ “THANKSGIVING LIVE IN DOME” phát hành đã giành vị trí đầu bằng trên BXH album Oricon tuần, với 139,708 bản.

Năm 2009 – 2010: Vụ kiện với SM và tạm dừng hoạt động

Tháng 09/2010, Avex tuyên bố đình chỉ mọi hoạt động của JYJ tại Nhật Bản do bất đồng với C-JeS Entertainment của JYJ tại Hàn. Ngày 14/10/2010, JYJ phát hành album tiếng Anh “The Beginning” và chính thức khởi động tour showcase toàn cầu, được tổ chức tại châu Á và Mỹ. JYJ đứng thứ 5 các Album hay nhất năm cùng với các tên tuổi nổi tiếng trên thế giới tại bạn đọc của tờ báo danh tiếng Billboard bầu chọn.

Showcase diễn ra thành công ngoài mong đợi, tuy gặp phải vấn đề về visa khiến cho showcase ở Mỹ không mang về lợi nhuận và các thành viên phải tự chi trả nhưng nhóm vẫn nhận được phản hồi tốt tại đất nước cờ hoa.

Năm 2009 – 2010: Vụ kiện với SM và tạm dừng hoạt động

Thành quả

Nhật Bản công bố tổng doanh thu mà các nghệ sĩ kiếm được trong năm 2010, TVXQ dù vướng vào những rắc rối của vụ kiện nhưng vẫn đứng vị trí thứ 2. Một lần nữa, nhóm khẳng định vị trí hàng đầu của mình tại thị trường âm nhạc Nhật Bản và là một trong những nghệ sĩ hàng đầu của tập đoàn AVEX.

Thành quả của TVXQ

Năm 2011: Sự trở lại

Ngày 04/01/2011, SM Entertainment tung MV ca khúc “Keep Your Head Down”, đánh dấu sự trở lại của TVXQ tại KPop được thể hiện bởi 2 thành viên U-know Yunho và Max Changmin. Phiên bản tiếng Nhật của “Keep Your Head Down” thành công vang dội với danh hiệu đĩa bạch kim, trở thành single thứ 8 của TVXQ đứng đầu bảng xếp hạng Oricon. Tháng 03/2011, TVXQ tung single “Before U Go” và đạt vị trí thứ 9 trên Gaon.

Ngày 20/07 TVXQ phát hành single “Superstar” và trở thành single thứ 9 đạt vị trí thứ 1 trên Oricon. Album tiếng Nhật “TONE” và hai single “B.U.T (Be-Au-Ty)” và “Duet” của nhóm cũng đạt được No.1 trên “J-pop Hot 100”. Đồng thời, nhóm cũng đạt được danh hiệu đĩa bạch kim không lâu sau đó với 278.057 album được bán trong tháng đầu tiên. Cùng năm 2011, TVXQ nhận thêm danh hiệu đĩa vàng cho 2 single “Superstar” và “Winter Rose”.

Năm 2011: Sự trở lại của TVXQ

Cuối năm 2011, bộ đôi TVXQ thực hiện chuỗi các lễ hội âm nhạc KPop trên toàn thế giới và tham gia New York-Korea Festival vào ngày 09/10/2011 được sản xuất bởi KBS để kỷ niệm kỷ niệm 20 năm gia nhập của Hàn Quốc vào Liên Hợp Quốc được tổ chức ở New Jersey.

Ngày 23/10, nhóm biểu diễn tại Concert SM Town ở New York – Madison Square Garden và thu hút được sự chú ý của truyền thông quốc tế. Ngày 12/11, TVXQ cũng là nghệ sĩ kết thúc chương trình tại K-pop Music Festival 2011 tại Sydney, Australia.

Năm 2011: Sự trở lại của TVXQ

Năm 2012: Tour lưu diễn thứ 5 tại Nhật Bản và album thứ 6 tại Hàn Quốc

Sự trở lại của tour diễn Nhật Bản “TONE” vào tháng 01/2012 của TVXQ đã bán hết vé chỉ trong vài phút. Nhóm cũng trở thành nghệ sĩ nước ngoài thứ 3 chỉ Michael JacksonBackstreet Boys, biểu diễn tại Tokyo Dome trong ba ngày liên tiếp.

Đây cũng chính là tour diễn lớn nhất của nghệ sĩ Hàn Quốc tại Nhật Bản vào thời điểm đó và chính TVXQ cũng đã tự phá vỡ kỷ luật của chính mình.

Tháng 03/2012, nhóm phát hành đĩa đơn tiếng Nhật thứ 34 “STILL” và trở thành nghệ sĩ nước ngoài đầu tiên phát hành mười một đĩa đơn đạt No.1 Oricon ở Nhật Bản. Tháng 07/2012, TVXQ được công nhận là nghệ sĩ nước ngoài đầu tiên tại Nhật Bản bán được hơn 3,1 triệu single CD, phá vỡ 10 năm, 10 tháng kỷ lục dài bởi bộ đôi thanh nhạc Mỹ, The Carpenters.

Năm 2012: Tour lưu diễn thứ 5 tại Nhật Bản và album thứ 6 tại Hàn Quốc

Sự kiện TOHOSHINKI 2012 Bigeast Fanclub Event – THE MISSION cũng đã phá vỡ kỷ lục và trở thành sự kiện fanclub lớn nhất trong lịch sử âm nhạc của Nhật Bản.
Entertainment đã kết thúc vào tháng 7 năm 2009.

Ngày 11/07, single tiếng Nhật thứ 35 mang tên “ANDROID” đạt vị trí số 2 trên Jpop Hot 100. Tháng 09/2012, TVXQ trở lại Hàn Quốc và phát hành album tiếng Hàn thứ 6 “Catch Me” và thông báo tour diễn thế giới đầu tiên Live World Tour: Catch Me. Sau khi phát hành trực tuyến vào ngày 24 và 26, “Catch Me” duy trì vị trí số 1 trên Gaon Album Chart trong ba tuần, trở thành album thứ 2 của bộ độ HoMin và album thứ 5 của TVXQ đạt No.1 tại Hàn.

Năm 2012: Tour lưu diễn thứ 5 tại Nhật Bản và album thứ 6 tại Hàn Quốc

Ngày 26/11, TVXQ phát hành phiên bản repackage của Catch Me tên “Humanoids” và đạt vị trí số 1. Sau đó 2 ngày, JYJ và SM kết thúc chuỗi vụ kiện, kết thúc tranh chấp pháp lý trong suốt 3 năm.

TVXQ tiếp tục phát hành single thứ 36 tại Nhật là “Catch Me – If You Wanna”, single nhanh chóng đạt No.1 tại Jpop Hot 100, bán 84.666 bản trong ngày đầu tiên và 134.304 bản trong tuần. Cuối năm 2012, TVXQ tham dự “Kpop Festival 2012” tại Việt Nam và một lần nữa, nhóm lại là nghệ sĩ kết thúc chương trình.

Năm 2012: Tour lưu diễn thứ 5 tại Nhật Bản và album thứ 6 tại Hàn Quốc

Năm 2013: Đỉnh cao của sự thành công tại Nhật cùng kỉ niệm 10 năm hoạt động

Ngày 06/03, TVXQ phát hành album tiếng Nhật thứ 6 mang tên “TIME” và chính thức trở thành album bán chạy nhất của họ từ trước đến nay. Album đạt vị trí số 1 tại Billboard Japan Hot 100 và lọt top 10 album bán chạy nhất năm tại Nhật, cũng đồng thời là album bán chạy nhất của một nghệ sĩ nước ngoài.

Single “Catch Me -If You Wanna-” đứng đầu BXH Oricon Weekly Singles và giúp nhóm trở thành nghệ sĩ nước ngoài đầu tiên có 12 single đạt No.1 trên bảng xếp hạng Oricon.

Năm 2013: Đỉnh cao của sự thành công tại Nhật cùng kỉ niệm 10 năm hoạt động

Tháng 03/2013, TVXQ là nghệ sĩ Hàn Quốc đầu tiên tham gia vào album TRF Tribute Album Best kỉ niệm 20 năm của TRF với ca khúc “Survival Dance – no no cry more-“.

Tháng 04/2013, TVXQ khởi động TIME Tour với buổi diễn tại Saitama Super Arena. Bộ đôi trở thành nghệ sĩ Hàn Quốc đầu tiên và nghệ sĩ nước ngoài đầu tiên biểu diễn tại Sân vận động Nissan. Song song với tour lưu diễn tại Nhật, TVXQ cũng tiến hành tour lưu diễn thế giới với nhiều quốc gia như Trung Quốc, Hồng Kông, Malaysia, Mỹ, Chile,…

Ngày 12/06, TVXQ phát hành single tiếng Nhật thứ 37 “Ocean” và đạt được vị trí số 2 trên BXH J-pop Hot 100. Ngày 04/09, nhóm phát hành single tiếng Nhật thứ 38 “Scream” và tiếp tục giành vị trí số 2 trên BXH J-pop Hot 100 của Billboard, đồng thời “Scream” cũng là ca khúc chủ đề của bộ phim “SADAKO 3D 2“.

Thành công nối tiếp thành công, TVXQ tiếp tục ra mắt single thứ 39 “Very Merry Xmas” vào ngày 27/11 và nhanh chóng đạt vị trí số 3 tại Jpop Hot 100 của Billboard. Cuối năm 2013, TVXQ đã chứng tỏ vị thế ông hoàng và là nghệ sĩ nổi tiếng nhất SM khi là nhóm nhạc biểu diễn kết thúc chương trình trong tour lưu diễn thế giới “SMTOWN Live World Tour 3“.

Năm 2013: Đỉnh cao của sự thành công tại Nhật cùng kỉ niệm 10 năm hoạt động

Tháng 12/2013, buổi diễn “Time Slip” được tổ chức vào ngày 26 và 27 để kỉ niệm sinh nhật lần thứ 10 của bộ đôi trong ngành công nghiệp Hàn Quốc, được tổ chức tại Trung tâm triển lãm quốc tế Hàn Quốc trong Ilsanseo-gu. Vé đã lập tức bán hết chỉ trong vòng ít phút và là lượng tiêu thụ vé nhanh nhất trong số các nghệ sĩ SM còn lại.

Năm 2013: Đỉnh cao của sự thành công tại Nhật cùng kỉ niệm 10 năm hoạt động

Năm 2014: Ra mắt loạt Album tiếng Nhật

Ngày 06/01/2014, TVXQ phát hành album thứ 7 “Tense” với ca khúc chủ đề “Something”, đây là ca album được Billboard đánh giá là xuất sắc nhất của bộ đôi. Album đạt vị trí số 2 tại BXH Album thế giới của Billboard và đạt vị trí số 3 trong top những album bán chạy nhất thế giới hàng tuần.

Ngoài ra, album còn khiến cho fan của Bruno Mars và fan của “ông hoàng nhạc pop” Michael Jackson tấm tắc khen ngợi. Album cũng đạt vị trí số 1 tại BXH album tháng 1 của Gaon và đứng đầu BXH Gaon hàng tuần.

Năm 2014: Ra mắt loạt Album tiếng Nhật

Ngày 05/02/2014, phiên bản tiếng Nhật của “Something” cũng được nhóm ra mắt trong single tiếng Nhật thứ 40 “Hide&Seek/Something”. Ngày 27/02, TVXQ tiếp tục phát hành phiên bản đóng gói cho cho album “Tense” mang tên “Spellbound” và và đạt vị trí số 2 trên BXH Gaon.

Ngày 24/03, TVXQ tổ chức chuyến tàu kỉ niệm 10 năm cho 180 fan đến từ nhiều quốc gia. Trong chuyến tàu, thủ lĩnh U Know Yunho đã tuyên bố “TVXQ! sẽ không bao giờ tan rã”.

Năm 2014: Ra mắt loạt Album tiếng Nhật

Sau đó, tại Japan Gold Disc Award 2014, TVXQ đã ẵm 5 giải thưởng gồm 2 giải thưởng lớn là “Album của năm” (TIME) và “nghệ sĩ châu Á xuất sắc nhất”, 3 giải còn lại là giải “ca khúc được tải về của năm”, giải “MV của năm” và “3 album xuất sắc nhất”.

Ngày 05/03, TVXQ ra mắt album phòng thu tiếng Nhật thứ 7 (thứ 14 trên tổng số) mang tên “TREE”, đứng vị trí số 1 trên Oricon và No1 trên Billboard album Nhật Bản. Để quảng bá cho album, TVXQ tổ chức tour lưu diễn toàn Nhật Bản mang tên “Live Tour 2014: TREE”, với tour diễn này, TVXQ cũng xác nhận thêm một kỉ lục nữa khi trở thành nghệ sĩ Hàn Quốc đầu tiên có 3 năm liên tiếp diễn 3 đêm liên tiếp ở Tokyo Dome.

TVXQ bổ sung thêm hai concert ở Osaka Dome và một concert ở Tokyo Dome trên tổng số 29 concert do nhu cầu vé quá cao. Một lần nữa, TVXQ trở thành nghệ sĩ nước ngoài đầu tiên có bốn concert liên tiếp tại Tokyo Dome.

Năm 2014: Ra mắt loạt Album tiếng Nhật

Tour lưu diễn kết thúc thành công và xác lập thêm 1 kỉ lục nữa cho TVXQ giúp nhóm trở thành nghệ sĩ nước ngoài đầu tiên thu hút hơn 2 triệu fan hâm mộ cho các tour lưu diễn trong vòng 2 năm. Một kỉ lục khác đó là nghệ sĩ nước ngoài đầu tiên có 5 DVD liên tiếp đứng đầu bảng xếp hạng Oricon. Ngày 05/11, TVXQ tiếp tục phát hành single tiếng Nhật thứ 42 mang tên “Time Works Wonder”.

Để kỉ niệm 10 năm hoạt động tại Nhật, TVXQ tổ chức tour lưu diễn vòng quanh 5 sân vận động mái vòm của Nhật (dome tour), đay cũng là Dome Tour thứ 2 trong sự nghiệp của nhóm. Đồng thời, TVXQ cũng tổ chức tour lưu diễn thế giới thứ 2 mang tên T1STORY để kỉ niệm 10 năm hoạt động.

Năm 2014: Ra mắt loạt Album tiếng Nhật

Ngày 30/09, những hình ảnh cảm động về sự nghiệp lừng lẫy của TVXQ đã được phát lên màn hình lớn của quảng trường Aurora Plaza thành phố Thượng hải và thu hút hàng chục nghìn fan đến xem. Trước đó, nhóm cũng trở thành nhóm nhạc Kpop được yêu thích nhất ở Trung Quốc và giành chiến thắng trong cuộc bình chọn “Ultimate Group” của đài PPTV.

Ngày 17/12, album tiếng Nhật thứ 8 “WITH” được phát hành và đã tẩu tán hơn 162,000 bản trong ngày đầu tiên. Sau 1 tháng, album được chứng nhận là album bạch kim khi lượt tiêu thụ lên đến hơn 250,000 bản.

Khép lại năm 2014, TVXQ trở thành nhóm nhạc KPop bán nhiều đĩa nhất toàn cầu với con số 1,2 triệu đĩa. Đồng thời, doanh thu bán hàng tại Nhật của nhóm đứng thứ 5 trong số các nghệ sĩ Nhật Bản với 30,4 triệu USD.

Năm 2014: Ra mắt loạt Album tiếng Nhật

Năm 2015: Hoạt động cuối cùng trước khi nhập ngũ

Ngày 11/02, TVXQ phát hành single kỉ niệm 10 năm tại Nhật “Sakuramichi”. Ngày 06/02 nhóm cũng đã khởi động tour lưu diễn Nhật Bản lần thứ 8 mang tên WITH để quảng bá cho album cùng tên.

Tại Tokyo Dome, trưởng nhóm Yunho đã bật khóc và cho biết đây có thể sẽ là tour lưu diễn cuối cùng TVXQ ở Nhật trước khi họ thực hiện nghĩa vụ bắt buộc ở quê nhà.

Ngày 13-14/06/2014, TVXQ đã tổ chức thành công 2 concert cuối cùng trong khuôn khổ 2014 TVXQ! Special Live Tour – T1ST0RY tại sân vận động Olympic Park Seoul.

Ngày 20/07, TVXQ phát hành album đặc biệt “Rise as God” trước 1 ngày Yunho chính thức nhập ngũ. Nhóm tuyên bố chính thức dừng hoạt động trong vòng hơn 2 năm và Changmin cũng sẽ nhập ngũ vào cuối năm.

Năm 2015: Hoạt động cuối cùng trước khi nhập ngũ

Năm 2017: Tái hoạt động sau khi xuất ngũ

Ngày 20/04 và ngày 18/08/2017, Yunho và Changmin lần lượt xác nhận xuất ngũ. Cuối tháng 09/2017, SM thông báo bộ đôi sẽ trở lại bằng dự án “Tuần lễ TVXQ”, thông qua SM STATION: “Drop”, Yunho sẽ phát hành ca khúc solo vào ngày 25/09 và Changmin sẽ ra mắt ca khúc solo vào ngày 28/09.

Ngày 25/10/2017, TVXQ phát hành album tuyển tập thứ 2 mang tên FINE COLLECTION – Begin Again Tại Nhật Bản, khởi động cho tour lưu diễn mang tên Tohoshinki LIVE TOUR 2017 – Begin Again. Cũng với tour diễn này, TVXQ lại thiết lập cột mốc mới cho KPop tại Nhật Bản với hơn một triệu vé tham gia đã được bán.

Năm 2017: Tái hoạt động sau khi xuất ngũ

Năm 2018 – nay: Series New Chapter, album tiếng Nhật thứ 9 và thứ 10

Ngày 28/03/2018, bộ đôi chuẩn bị cho album phòng thu Hàn Quốc thứ tám “New Chapter #1: The Chance of Love”. Sau khi ra mắt album, TVXQ cũng công bố Tour #welcome Tour, được khai mạc tại Sân vận động bổ sung Jamsil của Seoul vào ngày 05-06/05/2018, chuyến lưu diễn đã diễn ra ở Hồng Kông và Bangkok. New Chapter #1 đã nhanh chóng nắm giữ vị trí số 1 trên BXH album Gaon.

Ngày 19/09/2018, TVXQ phát hành album phòng thu Nhật Bản thứ 9 “Tomorrow”. Ngày 21/11/2018, bộ đôi ra mắt single tiếng Nhật thứ 46 “Jealous”, đây cũng là ca khúc chính cho album tiếng Nhật thứ 10 “XV” của nhóm.

Năm 2018 – nay: Series New Chapter, album tiếng Nhật thứ 9 và thứ 10

Tại BXH Oricon, single xếp vị trí thứ 1 và đây cũng là lần thứ 13 mà TVXQ đứng đầu tại BXH này, lập kỉ lục mới cho nghệ sĩ nước ngoài có doanh thu tích lũy cao nhất trong lịch sử Bảng xếp hạng đĩa đơn Oricon.

Phần tiếp theo của New Chapter # 1 là mini album “New Chapter #2: The Truth Of Love” được phát hành vào ngày 26/12/2018, kỉ niệm 15 năm ngày ra mắt của nhóm. Dù không quảng bá bản thu âm nhưng album cũng chễm chệ nằm tại vị trí thứ hai trên Bảng xếp hạng album Gaon – Hàn Quốc và vị trí thứ 12 trên Bảng xếp hạng album Oricon – Nhật Bản.

Năm 2018 – nay: Series New Chapter, album tiếng Nhật thứ 9 và thứ 10

Ngày 16/10/2019, để kỉ niệm 15 năm ra mắt TVXQ tại Nhật, nhóm cũng quảng bá album tiếng Nhật thứ mười “XV”. Đây chính là album thứ tám của TVXQ ra mắt trên Bảng xếp hạng album Oricon, đập tan kỉ lục của BoA khi trở thành nghệ sĩ nước ngoài đầu tiên và duy nhất ở Nhật Bản để phát hành tám album ở vị trí thứ nhất.

Năm 2018 – nay: Series New Chapter, album tiếng Nhật thứ 9 và thứ 10

Các thành viên của TVXQ

Yunho

  • Tên tiếng Trung: Trịnh Duẫn Hạo
  • Tên phiên âm: Jung Yun Ho
  • Nghệ danh: U – Know
  • Ngày sinh: 06/02/1986
  • Cung hoàng đạo: Bảo Bình
  • Chiều cao: 184cm
  • Cân nặng: 66kg
  • Quê quán: Gwangju, Hàn Quốc
  • Vị trí: Nhóm trưởng, Nhảy (Chính), Rap (Chính), Vocal
  • Instagram: @yunho2154
  • Năm hoạt động: 2003 – nay
  • Công ty quản lý: SM Entertainment

Fact về Yunho:

  • Yunho có 1 cô em gái và anh từng bày tỏ em gái chính là kho báu quý giá nhất của anh.
  • Thành viên có phản xạ nhanh nhất nhóm TVXQ là Yunho
  • Anh muốn làm một CD chứa tất cả những bài anh ấy sáng tác để gửi tặng riêng cho bạn gái tương lai của mình.
  • Yunho luôn dành thời gian để về quê, thăm trường học, mộ của ông nội, nhà dưỡng lão địa phương và mục sư trong kì nghỉ.
  • Yunho đã phải vội vã đến bệnh viện khi tham gia chương trình tạp kỹ của nhóm vào 14/10/2006 khi uống phải một thức uống tẩm keo mà anh nhận bởi một antifan. Anh cũng chính là nạn nhân trong vụ đầu độc nổi tiếng KPop của antifan.
  • Mẫu người lý tưởng của Yunho là 1 cô gái tỏa nắng và ân cần.
Yunho – thành viên của TVXQ

Changmin

  • Tên tiếng Trung: Thẩm Xương Mân
  • Tên phiên âm: Shim Chang Min
  • Nghệ danh: Max
  • Ngày sinh: 18/02/1988
  • Cung hoàng đạo: Bảo Bình
  • Chiều cao: 186cm
  • Cân nặng: 61kg
  • Quê quán: Seoul, Hàn Quốc
  • Vị trí: Giọng ca chính, Maknae
  • Instagram: @changmin88
  • Năm hoạt động: 2003 – nay
  • Công ty quản lý: SM Entertainment

Fact về Changmin:

  • Changmin là Phật tử duy nhất trong TVXQ.
  • Anh là người sở hữu chỉ số IQ cao nhất trong SM Entertainment là 155.
  • Nếu được tái sinh, Changmin mong muốn trở thành người bình thường thay vì là người nổi tiếng.
  • Changmin có số lượng bạn bè là người nổi tiếng ít nhất trong TVXQ.
  • Đặc điểm nhận dạng của Changmin là nụ cười híp mắt. Khi cười, mắt phải của anh cũng nhỏ hơn mắt bên trái.
  • Ngày 25/10/2020, Changmin tổ chức đám cưới bí mật và vợ của anh nhỏ tuổi hơn, không làm việc trong ngành giải trí.
Changmin – thành viên của TVXQ

Jaejoong

  • Tên tiếng Trung: Kim Tại Trung
  • Tên phiên âm: Kim Jae Joong
  • Nghệ danh: Hero
  • Ngày sinh: 26/01/1986
  • Cung hoàng đạo: Bảo Bình
  • Chiều cao: 180cm
  • Cân nặng: 63kg
  • Quê quán: Gongju, Chungcheongnam-do, Hàn Quốc
  • Vị trí: Main Vocalist, Visual, Face of the Group
  • Twitter: @bornfreeonekiss
  • Năm hoạt động: 2003 – nay
  • Công ty quản lý: C-JeS Entertainment

Fact về Jaejoong:

  • Năm 15 tuổi, Jaejoong tự chuyển đến Seoul để tham gia buổi thử giọng của SM. Khi còn là thực tập sinh, anh đã làm nhiều công việc để trang trải sinh hoạt phí khi sống tại thủ đô gồm tiền thuê nhà, phí đào tạo, tiền ăn uống,…
  • Jaejoong là người theo học tại nhiều ngôi trường nhất trong nhóm TVXQ và có thể nói được 3 thứ tiếng là Hàn, Nhật, Trung.
  • Jaejoong và Yunho không thể nói chuyện với nhau trong 3 hoặc 4 ngày sau khi ghi hình cho bộ phim Dangerous love.
  • Khi còn học tiểu học, Jaejoong thừa nhận anh là tông điếc và bị bạn bè chế giễu khi ước mơ trở thành ca sĩ, nhưng anh đã bỏ qua những lời đó và quyết tâm tự tập hát.
  • Jaejoong được tuyên bố là thần tượng Kpop giàu nhất với tài sản ròng trị giá 100 triệu đô la vào năm 2017.
Jaejoong – thành viên của TVXQ

Junsu

  • Tên tiếng Trung: Kim Tuấn Tú
  • Tên phiên âm: Kim Jun Su
  • Nghệ danh: Xiah
  • Ngày sinh: 15/12/1986
  • Cung hoàng đạo: Nhân Mã
  • Chiều cao: 178cm
  • Cân nặng: 63kg
  • Quê quán: Gyeonggi-do, Hàn Quốc
  • Vị trí: Main Vocalist, Lead Dancer
  • Twitter: @1215thexiahtic
  • Năm hoạt động: 2003 – nay
  • Công ty quản lý: C-JeS Entertainment

Fact về Junsu:

  • Junsu có 1 người anh em sinh đôi tên Kim Junho.
  • Junsu là thành viên kín tiếng nhất TVXQ và có 1 sự nghiệp solo vô cùng thành công.
  • Junsu và HaniEXID từng hẹn hò một thời gian và đã chia tay vào ngày 13/09/2016 do lịch trình bận rộn.
  • Mẫu bạn gái lý tưởng: Một cô gái sở hữu trái tim ấm áp và cơ thể nóng bỏng chính.
  • Anh cũng là người tham gia nhiều buổi biểu diễn nhạc kịch nổi tiếng.
Junsu – thành viên của TVXQ

Yoochun

  • Tên tiếng Trung: Phác Hữu Thiên
  • Tên phiên âm: Park Yoo Chun
  • Nghệ danh: Micky
  • Ngày sinh: 04/06/1986
  • Cung hoàng đạo: Song tử
  • Chiều cao: 180cm
  • Cân nặng: 60kg
  • Quê quán: Seoul, Hàn Quốc
  • Vị trí: Main Rapper, Vocalist
  • Twitter: @6002theMicky
  • Năm hoạt động: 2003 – nay
  • Công ty quản lý: C-JeS Entertainment

Fact về Yoochun:

  • Yoochun vô cùng sợ nhện.
  • Món quà đầu tiên mà Yoochun nhận được từ em trai là chiếc vòng tay và anh luôn đeo trên tay trái.
  • Yoochun là thành viên có nhiều scandal nhất TVXQ.
  • Tháng 04/2019, anh được báo cáo là dương tính với ma túy.
  • Ngày 24/04/2019, anh chính thức rút khỏi ngành công nghiệp âm nhạc và bị bắt sau khi bị nghi ngờ mua 1,5 gram Philopon.
Yoochun – thành viên của TVXQ

Danh sách các bài hát trong TVXQ

Album phòng thu tiếng Hàn

Tri-Angle (2004)

  • Ngày phát hành: 11/10/2004
  • Sáng tác: Yoo Young-jin
  • Trình bày: TVXQ, BoA, TRAX

Rising Sun (2005)

  • Ngày phát hành: 12/09/2005
  • Sáng tác: Yoo Young Jin
  • Trình bày: TVXQ

“O”-Jung.Ban.Hap. (2006)

  • Ngày phát hành: 14/10/2006
  • Sáng tác: Yoo Young Jin
  • Trình bày: TVXQ

Mirotic (2008)

  • Ngày phát hành: 24/09/2008
  • Sáng tác: Sarah Connor, Lucas Seco
  • Trình bày: TVXQ

Keep Your Head Down (2011)

  • Ngày phát hành: 03/11/2011
  • Sáng tác: Yoo Han Jin
  • Trình bày: TVXQ

Catch Me (2012)

  • Ngày phát hành: 24/09/2012
  • Sáng tác: Yoo Han Jin
  • Trình bày: TVXQ

Tense (2014)

  • Ngày phát hành: 06/01/2014
  • Sáng tác: Yoo Han Jin, Yoo Young Jin
  • Trình bày: TVXQ

Rise As God (2015)

  • Ngày phát hành: 17/07/2015
  • Sáng tác: Marcus Lindberg, Hjalmar Wilen
  • Trình bày: TVXQ

New Chapter #1: The Chance of Love (2018)

New Chapter #2: The Truth of Love (2018)

Album phòng thu tiếng Nhật

Heart, Mind and Soul (2006)

  • Ngày phát hành: 23/03/2006
  • Sáng tác: Skoop On Somebody, Osanai Ma
  • Trình bày: TVXQ

Five in the Black (2007)

  • Ngày phát hành: 14/03/2007
  • Sáng tác: Christopher Lee-Joe, Curtis Richardson, Daisuke Suzuki
  • Trình bày: TVXQ

T (2008)

  • Ngày phát hành: 22/01/2008
  • Sáng tác: Jerome Andrews, Shelton Jones, Jarkko Ehnqvist, Pessi Levanto, Martin Mulholland, Deez
  • Trình bày: TVXQ

The Secret Code (2009)

Tone (2011)

  • Ngày phát hành: 28/09/2011
  • Sáng tác: MonoTree, JQ, Kyle MacKenzie, Keir Mac Culloch, Hannah Wilson, Aston Merrygold, Alexander Holmgren, Andreas Stone Johansson, Marty Dodson
  • Trình bày: TVXQ

Time (2013)

  • Ngày phát hành: 06/03/2013
  • Sáng tác: Thomas Troelsen, William James McAuley III (Bleu), Mats Valentin, Tobias Norber, Jarkko Ehnqvist, Pessi Levanto, Martin Mulholland, Deez
  • Trình bày: TVXQ

Tree (2014)

  • Ngày phát hành: 05/03/2014
  • Sáng tác: MonoTree, Yummy Tone, Onestar, Marcus Lindberg, Hjalmar Wilen, Yoko Hiramatsu, Jamie Jones, Oskar Cartaya
  • Trình bày: TVXQ

With (2014)

Tomorrow (2018)

  • Ngày phát hành: 19/09/2018
  • Sáng tác: Blackcell, Jakob Mihoubi
  • Trình bày: TVXQ

XV (2019)

  • Ngày phát hành: 16/10/2019
  • Sáng tác: Hi‐yunk, Matthew Tishler
  • Trình bày: TVXQ

Giải thưởng, hoạt động và thành tích nổi bật của nhóm TVXQ

  • Trong suốt hơn 15 năm hoạt động, TVXQ đã mang về nhiều giải thưởng cũng như có được những hoạt động và thành tích nổi bật trong sự nghiệp âm nhạc.
  • Năm 2008, TVXQ lần đầu tiên chiếm vị trí cao nhất trên BXH Oricon cho đĩa đơn tiếng Nhật thứ 16 “Purple Line”. Thành tích này khiến nhóm trở thành nghệ sĩ châu Á và là nhóm nhạc nước ngoài đầu tiên có single No.1 trên BXH uy tín này.
  • Single tiếng Nhật thứ 23 của TVXQ “Doushite Kimi wo Suki ni Natte Shimattan Darou?” giúp nhóm trở thành nghệ sĩ nước ngoài đầu tiên có 3 đĩa đơn đứng đầu BXH Oricon.
  • Năm 2010, album “Best Selection 2010” ở Nhật đạt kỉ lục mới với hơn 510.000 lượt tiêu thụ trong 1 tháng và mang về 2 giải bạch kim.
  • Năm 2012, single thứ 36 “Catch Me -If you wanna-“ giúp TVXQ là nghệ sĩ nước ngoài đầu tiên tiêu thụ hơn 200.000 bản tại Nhật.
  • Năm 2013, tour diễn Five-Dome, Tohoshinki Live Tour 2013 TIME thu hút hơn 850.000 fan hâm mộ và giúp nhóm trở thành nghệ sĩ nước ngoài đầu tiên biểu diễn tại sân vận động lớn nhất Nhật Bản – Nissan Stadium với hơn 72.000 vé được bán.
  • TVXQ là nghệ sĩ sở hữu CLB người hâm mộ có lượng thành viên đông nhất thế giới.
    BigEat – tên FC tại Nhật của TVXQ có khoảng hơn 170.000 thành viên và nhóm cũng có FC tại Bắc Mỹ là Aethiopeia.
Giải thưởng, hoạt động và thành tích nổi bật của nhóm TVXQ

Xem thêm:

Trên đây là bài viết về các thành viên của TVXQVANHOADOISONG vừa gửi đến bạn đọc. Hy vọng đã mang đến cho bạn nhiều thông tin hay về nhóm nhạc tài năng này. Hẹn gặp lại bạn ở những bài viết sau nhé!

0/5 (0 Reviews)
Khương Nhung

Recent Posts

Những lời chúc đầu tuần may mắn hay, ý nghĩa nhất cho 7 ngày

Gửi lời chúc đầu tuần ý nghĩa cho người yêu, bạn bè, gia đình là…

4 ngày ago

60+ câu nói hay về cuộc sống giúp bạn “nghĩ khác đi”

Trong cuộc sống sẽ có nhiều lúc bạn gặp khó khăn nhưng không biết phải…

4 ngày ago

Tổng hợp những lời chúc ngủ ngon dễ thương, lãng mạn, hài hước

Chúc ngủ ngon là một trong những cách đơn giản nhưng ý nghĩa thể hiện…

4 ngày ago

60+ Lời chúc mừng sinh nhật bố/mẹ hay và ý nghĩa nhất

Bố mẹ là người quan trọng nhất trong cuộc đời chúng ta, là người duy…

4 ngày ago

Những câu nói hay về sự cố gắng, chiến thắng bản thân

Cuộc sống luôn cần sự cố gắng để vượt qua nghịch cảnh và chiến thắng…

5 ngày ago

Những lời chúc cuối tuần vui vẻ, ấm áp hay và ý nghĩa nhất

Những lời chúc cuối tuần độc đáo chính là cầu nối trao gửi tình yêu…

5 ngày ago

This website uses cookies.